Sự phát minh và phát triển của máy in đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá nền văn minh và văn hóa của loài người.
Năm 1439, Gutenberg của Đức đã chế tạo ra máy in nổi bằng gỗ. Mặc dù máy in xoắn ốc vận hành bằng tay này có cấu trúc đơn giản nhưng đã được sử dụng trong 300 năm; năm 1812, Koenig của Đức đã chế tạo ra máy in nổi tấm phẳng tròn đầu tiên; năm 1847, Hoy của Hoa Kỳ đã phát minh ra máy in quay; năm 1900, máy in quay sáu màu đã được chế tạo; năm 1904, Rubell của Hoa Kỳ đã phát minh ra máy in offset.
Trước những năm 1950, công nghệ in nổi truyền thống thống trị ngành in ấn và sự phát triển của máy in cũng do máy in nổi thống trị. Tuy nhiên, quy trình in nổi hợp kim chì có nhược điểm là cường độ lao động cao, chu kỳ sản xuất dài và ô nhiễm môi trường. Từ những năm 1960, quy trình in offset thạch bản với đặc điểm là chu kỳ ngắn và năng suất cao đã bắt đầu phát triển và phát triển, và in nổi hợp kim chì đã dần được thay thế bằng in offset thạch bản. In nổi mềm, in lưới, in tĩnh điện, in phun, v.v. cũng đã được phát triển trong in bao bì và in quảng cáo.
Máy móc in ấn trên thế giới đã có những tiến bộ lớn kể từ những năm 1980. Trong 20 năm qua, sự phát triển của máy móc in ấn đã trải qua ba giai đoạn:
Giai đoạn đầu tiên là từ đầu những năm 1980 đến đầu những năm 1990, đây là thời kỳ hoàng kim của sự phát triển của công nghệ in offset. Tốc độ in tối đa của máy in offset một tờ trong giai đoạn này là 10.000 bản in/giờ. Thời gian chuẩn bị điều chỉnh trước khi in cho máy in bốn màu thường là khoảng 2 giờ. Điều khiển tự động của máy in chủ yếu tập trung vào việc đóng giấy tự động, thu gom giấy tự động, vệ sinh tự động, tự động phát hiện màu mực và tự động điều chỉnh lượng mực, điều khiển từ xa để đăng ký. Ngoài máy một màu và hai màu trong giai đoạn này, hầu như mọi nhà sản xuất máy in offset một tờ cũng có khả năng sản xuất máy bốn màu và hầu hết các nhà sản xuất đều có thể sản xuất cơ cấu lật giấy để in hai mặt.
Giai đoạn thứ hai là từ đầu những năm 1990 đến cuối thế kỷ 20. Vào những năm 1990, trình độ thiết kế và sản xuất máy móc in ấn quốc tế đã có bước tiến lớn, được đánh dấu bằng máy in offset một tờ. So với các mô hình giai đoạn đầu, tốc độ của các mô hình thế hệ mới đã được cải thiện hơn nữa, từ 10.000 bản in/giờ lên 15.000 bản in/giờ và thời gian điều chỉnh trước khi in đã được rút ngắn đáng kể từ khoảng 2 giờ ở giai đoạn đầu tiên xuống còn khoảng 15 phút. Mức độ tự động hóa và hiệu quả sản xuất của máy cũng đã được cải thiện đáng kể.
Từ đầu thế kỷ 21, máy móc in đã mở ra giai đoạn phát triển thứ ba. Một số mẫu máy in offset một tờ có thể đạt 17.000-18.000 bản in/giờ, nhưng các nhà sản xuất không cố gắng tăng tốc độ in tối đa của máy in mà thông qua ứng dụng công nghệ thông tin, rút ngắn hơn nữa thời gian chuẩn bị trước khi in và thời gian thay đổi các bộ phận trực tiếp để theo đuổi hiệu quả sản xuất cao hơn.
Về mặt tự động hóa máy in, kết nối mạng, tích hợp sản xuất, quy trình làm việc kỹ thuật số và liên kết với hệ thống thông tin quản lý (MIS) đã trở thành trọng tâm phát triển. Ngoài việc cài đặt trước, điều chỉnh và chẩn đoán lỗi ở mọi liên kết làm việc của toàn bộ máy, bao gồm cấp giấy, cấp giấy và dẫn giấy, cấp mực, cấp nước, thay bản, đăng ký, vệ sinh, sấy khô, tráng men, phun bột và thu gom giấy, hệ thống điều khiển tự động CP2000 của Heidelberg còn có chức năng thực hiện kết nối mạng tất cả các quy trình sản xuất của doanh nghiệp in và truyền trực tuyến dữ liệu xử lý hình ảnh trước khi in (dữ liệu CIP3/PPF hoặc CIP4/JDF). Bước vào thế kỷ mới, hầu hết các nhà sản xuất máy in offset đều đã phát triển các máy in kỹ thuật số DI tương ứng.
Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu in màu chất lượng cao của mọi người, in hai mặt nhóm nhiều màu với 8 hoặc thậm chí 10 nhóm màu và các chức năng xử lý sau in trực tuyến bổ sung đã trở thành xu hướng phát triển của nhiều loại máy in offset nạp tờ rời (bao gồm máy in offset nhỏ, máy tạo bản trực tiếp DI và máy in offset lớn), và công nghệ ngày càng hoàn thiện. Loại máy in này đã bắt đầu chiếm một phần thị trường ban đầu thuộc về máy in web.